Bà con nuôi tôm yên tâm khi ứng dụng công nghệ giám sát, cảnh báo tự động chất lượng nước. Công nghệ không những giúp tôm sinh trưởng và phát triển mạnh mà còn đảm bảo việc kiểm soát môi trường, tránh dịch bệnh để nghề nuôi tôm phát triển hiệu quả và bền vững. Điều ý nghĩa hơn, thành công của dự án đã minh chứng cho hiệu quả từ việc hình thành và phát triển mạng lưới tổ chức trung gian của thị trường KH&CN, triển khai những chính sách đã ban hành về hỗ trợ hoàn thiện kết quả nghiên cứu công nghệ; ứng dụng kết quả nghiên cứu công nghệ…

Tự động hóa quy trình nuôi tôm

Sản lượng tôm tăng từ 300 – 700kg, tiết kiệm khoảng 20% tiền điện, không phải lo lắng mỗi đêm là kết quả mà những hộ nuôi tôm ở ĐBSCL đạt được khi lắp đặt “Hệ thống giám sát, cảnh báo tự động một số chỉ tiêu môi trường nước (e – Aqua)” trong ao nuôi tôm thẻ chân trắng.

Từ đầu năm 2017, Dự án “Hỗ trợ thương mại hóa hệ thống giám sát, cảnh báo tự động một số chỉ tiêu môi trường nước phục vụ nuôi tôm thâm canh nước mặn, lợ trong ao đất tại khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long” được thực hiện tại Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau và TPHCM. Dự án trên thuộc Chương trình Phát triển thị trường khoa học và công nghệ (KH&CN) đến năm 2020 (Chương trình 2075) do Trung tâm Ứng dụng và Dịch vụ Khoa học và Công nghệ thuộc Cục Công tác phía Nam, Bộ Khoa học và Công nghệ là đơn vị chủ trì. Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản II và Trung tâm phát triển công nghệ và thiết bị công nghiệp Sài Gòn (CENINTEC) phối hợp thực hiện. Theo đó, các hộ nuôi tôm của dự án được áp dụng hệ thống giám sát và cảnh báo tự động chất lượng nước e – Aqua do CENINTEC sản xuất.

Hệ thống giám sát, cảnh báo tự động một số chỉ tiêu môi trường nước phục vụ nuôi tôm thâm canh nước mặn, lợ trong ao đất tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long

Hệ thống này gồm bộ điều khiển đo, giao diện giám sát và điều khiển, phần mềm thu thập và thống kê số liệu được thiết kế nhỏ gọn, với chỉ một bộ đầu dò (sensor) có thể bổ trí cho 8 điểm đo. Hệ thống sẽ tuần tự lấy nước từ các điểm đo về máy bơm. Từ đó, các sensor sẽ thực hiện đo tất cả các chỉ tiêu của nước như nhiệt độ, DO (nồng độ o xy hòa tan), pH, độ mặn.

Các dữ liệu này sẽ được cập nhật lên điện toán đám mây, giúp người giám sát từ xa thông qua các thiêt bị di động thông minh như điện thoại, máy tính bảng. Dữ liệu sẽ được so sánh với ngưỡng cho phép được cài đặt sẵn để thực hiện cảnh báo bật hay tắt các thiết bị vận hành tự động.

Hệ thống này có thể thực hiện liên tục suốt ngày đêm, điều mà con người không thể làm được. Nhờ đó, có thể cảnh báo kịp thời cho người nuôi tôm. Bên cạnh giám sát hàm lượng ôxy hòa tan, hệ thống còn có thể đánh giá các chỉ tiêu như NH3, H2S, mật độ tảo, mật độ vi sinh vật trong ao nuôi,… nhằm hạn chế rủi ro dịch bệnh, môi trường ao nuôi được xử lý kịp thời, góp phần làm giảm ô nhiễm môi trường nước.

Ông Ong Tài Thuận – Giám đốc Trung tâm Ứng dụng tiến bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) Sóc Trăng cho biết, 4.000m2 được lắp đặt hệ thống e – Aqua, sau 3 tháng vận hành đã cho năng suất và lợi nhuận tăng đáng kể. hệ thống vận hành dễ dàng, ổn định, tiết kiệm được thời gian, chi phí giám sát, nhân lực.

Nhờ được theo dõi và đánh giá liên tục được nồng độ DO trong ao nuôi nên có biện pháp xử lý kịp thời khi xảy ra sự cố đột ngột, đặc biệt vào ban đêm. Cũng nhờ chỉ tiêu nồng độ DO được giám sát liên tục, người nuôi tôm chủ động kiểm soát được chế độ quạt nước. Ban ngày hạn chế chạy một số quạt, ban đêm khi ô xy thấp thì tăng cường chạy quạt. Qua hệ thống, cũng chủ động kiểm soát được lượng thức ăn khi nồng độ DO xuống thấp.

Kỹ thuật viên hướng dẫn tham quan thực tế và thực hành điều khiển hệ thống giám sát tự động tại mô hình trình diễn nuôi tôm thuộc Công ty TNHH Đầu tư Thủy sản Huy Thuận.

Mặc dù vận hành dễ dàng nhưng theo ông Thuận, việc cài đặt phần mềm còn tương đối phức tạp. Vì vậy, hệ thống cần cải tiến cho dễ dàng và thân thiện đối với đại đa số người dùng. Đồng thời, cần hướng dẫn cụ thể và cách xử lý các tình huống trong quá trình vận hành hệ thống.

Ông Quách Hoàng Dũng, một hộ nông dân ở xã Tân Phong (Giá Rai, Bạc Liêu) có 2000m2 cũng cho biết, nhờ hệ thống quan trắc này nên người nuôi tôm có thể chủ động can thiệp và xử lý kịp thời môi trường ao nuôi. Tuy nhiên, giá thành của hệ thống còn cao ( khoảng120 triệu đồng) nên những hộ nuôi nhỏ lẻ khó tiếp cận được. “Chỉ tiêu đo độ mặn thường cố định, ít biến động trong suốt quá trình nuôi, nên có thể cắt giảm chỉ tiêu này trong hệ thống nhằm giảm chi phí. Thay vào đó, tích hợp các chỉ tiêu khác như NH3, NO2 sẽ hữu dụng hơn – ông Dũng đề xuất.

Dự án “Hỗ trợ thương mại hóa hệ thống giám sát, cảnh báo tự động một số chỉ tiêu môi trường nước phục vụ nuôi tôm thâm canh nước mặn, lợ trong ao đất tại khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long” được triển khai trong hai năm 2017-2018. Những hộ nông dân tham gia dự án sẽ được đào tạo, bồi dưỡng và chuyển giao công nghệ hệ thống e-Aqua, đồng thời các hộ này còn được hỗ trợ 30% kinh phí đầu tư hệ thống.

Minh chứng cho hiệu quả từ chính sách đến thị trường KH&CN

Phan Thanh Lâm, Phó Viện trưởng Viện nuôi trồng Thủy sản, Chủ nhiệm Dự án cho biết: sau hơn một năm triển khai, dự án đã xây dựng được mô hình áp dụng hệ thống chuẩn hóa giám sát, cảnh báo tự động một số chỉ tiêu môi trường nước cho tôm thâm canh tôm nước mặn, lợ tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Hệ thống đã triển khai trình diễn công nghệ tại mô hình Bến Tre của dự án như doanh nghiệp Huy Thuận – Bến Tre. Bên cạnh đó, dự án đã ký được 01 hợp đồng chuyển giao hệ thống giám sát, cảnh báo tự động chất lượng nước phục vụ nuôi thâm canh tôm nước mặn, lợ trong ao đất cho Công ty Khôi Nguyên ở Kiên Giang.

Hệ thống trung tâm – nơi điều khiển, kiểm soát toàn bộ các chỉ tiêu chất lượng nước nuôi tôm.

Sản phẩm hệ thống trên khi triển khai có thể sử dụng phục vụ lâu dài cho hoạt động nuôi tôm tại khu vực Đồng bằng sông Cửu Long. Đồng thời khi nghiên cứu hoàn thiện mô hình có thể áp dụng cho hoạt động nuôi trồng thủy sản trong cả nước. Hệ thống công nghệ thương mại hóa thành công sẽ giúp nâng cao năng suất lao động, tiết kiệm công lao động trong việc theo dõi tình hình chất lượng nước nuôi tôm thường xuyên, cung cấp xã hội nguồn giải pháp kỹ thuật mới có chất lượng cao. Giúp các công ty trong lĩnh vực tự động hóa có được xu hướng mới trong việc cung cấp ra thị trường hệ thống công nghệ mới, tiên tiến phù hợp với điều kiện Việt Nam và giá thành trong nước.

Đặc biệt, việc triển khai thành công dự án sẽ góp phần hình thành và phát triển mạng lưới tổ chức trung gian của thị trường KH&CN như triển khai những chính sách đã ban hành về hỗ trợ hoàn thiện kết quả nghiên cứu công nghệ; ứng dụng kết quả nghiên cứu công nghệ trong lĩnh vực tự động hóa vào các mô hình nông nghiệp nhằm đổi mới, cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm và hiệu quả môi trường trồng thủy sản. Đồng thời, hỗ trợ các Chương trình KH&CN cấp Nhà nước về nghiên cứu phát triển công nghệ, nâng cao năng lực phối hợp và dẫn dắt các tổ chức trung gian nhằm tạo liên kết mạnh giữa khối nghiên cứu và doanh nghiệp để phát triển, ứng dụng công nghệ, tiếp nhận hiệu quả công nghệ từ viện nghiên cứu/ trường đại học. Cùng với đó sẽ hỗ trợ quá trình nghiên cứu công nghệ đến giai đoạn tiền thương mại hóa, tạo điều kiện thuận lợi để huy động các nguồn đầu tư cho giai đoạn này, thúc đẩy ứng dụng kết quả nghiên cứu công nghệ vào thực tiễn góp phần phát triển thị trường công nghệ….

Kết quả của dự án sẽ được chuyển giao cho các Trung tâm ứng dụng tiến bộ kỹ thuật vùng Đồng bằng Sông Cửu Long, đặc biệt là Trung tâm Ứng dụng KH&CN tỉnh Bạc Liêu, Sóc Trăng, Cà Mau và Trung tâm khuyến nông, khuyến ngư Bạc Liêu, Sóc Trăng và Cà Mau. Kết quả đạt được của dự án sẽ áp dụng và chuyển giao rộng rãi cho các hộ nuôi sản xuất tôm chân trắng thâm canh tại Bạc Liêu, Sóc Trăng, Cà Mau cũng như các địa bàn vùng Đồng bằng Sông Cửu Long và cả nước…

Ông Mai Thế Bình – Phó Giám đốc Quỹ Phát triển KH&CN quốc gia khẳng định rằng dự án đã bước đầu đạt được nhiều kết quả đề ra, đem lại hiệu quả kinh tế rõ rệt. Trong thời gian tới, nhóm thực hiện dự án cần tiếp tục đẩy mạnh việc triển khai dự án để hoàn thành dự án theo đúng tiến độ đã đề ra nhằm chuyển giao công nghệ không. Ông Mai Thế Bình – Phó Giám đốc Quỹ Phát triển KH&CN quốc gia khẳng định rằng dự án đã bước đầu đạt được nhiều kết quả đề ra, đem lại hiệu quả kinh tế rõ rệt. Trong thời gian tới, nhóm thực hiện dự án cần tiếp tục đẩy mạnh việc triển khai dự án để hoàn thành dự án theo đúng tiến độ đã đề ra nhằm chuyển giao công nghệ không những giúp tôm sinh trưởng và phát triển mạnh mà còn đảm bảo việc kiểm soát môi trường, tránh dịch bệnh để nghề nuôi tôm phát triển hiệu quả và bền vững.

Hoàng Lê